Cách đây 75 năm (15/11/1948 - 15/11/2023), với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Bệnh tự kiêu, tự ái”, nêu rõ nguồn gốc, tác hại và cách chữa trị căn bệnh này.
1. Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về bệnh tự kiêu, tự ái
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và trăn trở về tác hại của những căn bệnh làm suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, gây nguy hiểm cho xây dựng Đảng. Trong các tác phẩm: “Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ” (năm 1947), “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), “Bệnh tự ái, tự kiêu” (năm 1948), “Đạo đức cách mạng” (năm 1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (năm 1969)... Trong số những căn bệnh đó, Người đã chỉ ra triệu chứng, nguy cơ nảy sinh bệnh tự kiêu, tự ái và tác hại của nó đối với Đảng.
Nhận diện bệnh tự kiêu, Người chỉ rõ những biểu hiện sau đây:
Thứ nhất, tự kiêu tức là cho mình “việc gì cũng thạo, cũng làm được. Việc gì mình cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai”[1]. Tự kiêu là mù quáng “chỉ trông thấy những việc mình tưởng mình làm được, những điều mình tưởng mình biết hết; mà không trông thấy những điều mình không biết, những việc mình chưa làm được”[2].
Thứ hai, tự kiêu là hẹp hòi “Tài đức độ lượng nhỏ nhen, không bao dung được những ý kiến và phê bình của người khác”[3].
Thứ ba, tự kiêu là thoái bộ “Vì tự mãn tự túc, không cố gắng học hỏi thêm. Không theo kịp sự tiến bộ của thời đại. Tự mình ngăn trở sự tiến bộ của mình”[4].
Thứ tư, tự kiêu là hủ hóa “Vì không chịu học những sự hay sự tốt của người; không ưa những lời phê bình thẳng thắn để sửa chữa những khuyết điểm của mình”[5].
Hậu quả của căn bệnh tự kiêu được Bác chỉ ra là: “Tự kiêu nhất định sẽ đi dến thất bại. Vì kiêu ắt đi đôi với nịnh. Đã kiêu thì ắt ghét những người tài giỏi hơn mình. Ưa những kẻ nịnh hót mình. Thân cận là những kẻ vô tài bất lực, nhưng khéo nịnh hót a dua. Xa cách hoặc dìm hãm những người có tài có đức hay bàn ngay nói thẳng”[6].
Nhận diện bệnh tự ái, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nghĩa chính của chữ tự ái là giữ đúng chữ cần, kiệm, liêm, chính. Không làm điều gì có hại đến danh dự và đạo đức của mình. Thế là chân chính tự ái”[7]. Chính vì không hiểu hết nghĩa của chữ tự ái, nên Người chỉ ra những biểu hiện của bệnh tự ái là “hay chấp vặt, không can đảm tự phê bình, không ưa những lời phê bình ngay thẳng”[8]. Bệnh tự ái luôn luôn đi đôi với tự kiêu, tự mãn, tự túc và kết quả của căn bệnh tự ái là “mình tự ngăn trở mình tiến bộ, đồng thời đã tự kiêu, tự ái thì không thể đoàn kết. Không đoàn kết tức là cô độc. Đã cô độc thì chẳng việc gì thành công”[9].
Sau khi chỉ dẫn những biểu hiện của bệnh tự kiêu, tự ái và hậu quả to lớn của hai căn bệnh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Mỗi một người và tất cả mọi chúng ta phải tẩy cho sạch bệnh tự kiêu, “tự ái”. Đó là căn bệnh rất nguy hiểm cho đạo đức và công việc”[10]. Để chữa căn bệnh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh kê thang thuốc thánh gồm có bốn vị là: Một là, thật thà tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình; hai là, cố gắng sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm; ba là, luôn luôn cố gắng học hỏi để luôn luôn tiến bộ; bốn là, thực hành đoàn kết[11].
